C.H.I.C.K. Program Online - Số 03

Điều kiện ấp trứng và năng suất gà thịt

 

...

 

--> Ba vấn đề trọng yếu

--> Nguyên nhân máy ấp bị nóng

--> Tỉ lệ nở và nhiệt độ

--> Kích thích chuyển hóa lòng đỏ

 

...

 

ĐIỀU KIỆN ẤP TRỨNG VÀ NĂNG SUẤT GÀ THỊT

(Incubation conditions and broiler performance)

Tác giả: A.D. Nicholson, Công ty Aviagen, Newbridge, Midiothian EH28 8SZ, Scotland

.

Năng suất tổng thể của trại ấp thường được đánh giá dựa trên tỉ lệ nở, tỉ lệ chết của gà thịt trong tuần đầu tiên và đôi khi cả tỉ lệ chọn lọc. Rất khó để đánh giá chất lượng gà con ở trại ấp, vì thế chỉ cần tỉ lệ nở và tỉ lệ sống sót của chúng nằm trong khoảng chấp nhận được, thì trại ấp đó được xem là đạt được tất cả những tiêu chuẩn đáng mong đợi trên.

Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng trứng nằm trong máy ấp 21 ngày trước khi nở ra gà con - khoảng thời gian đáng kể trong cuộc đời của gà, ví dụ như gà thịt chỉ được nuôi vỏn vẹn khoảng 40 ngày, tức là 21 ngày trong máy ấp (tồn tại ở dạng phôi trong trứng) chiếm khoảng 34% tổng số tuổi thọ của chúng. Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng các hoạt động trong khi ấp và chương trình kiểm soát quá trình ấp trứng có thể gây tác động rất lớn đến năng suất gà thịt ở tất cả các mặt liên quan đến trọng lượng khi giết thịt. Những thay đổi nhỏ thường sẽ tạo ra nhiều khác biệt đáng kể.

BA VẤN ĐỀ TRỌNG YẾU

Có ba vấn đề chính cần xem xét: nhiệt độ phôi sau 15 ngày, tổng thời gian trứng nằm trong máy ấp và khoảng thời gian từ khi nở cho đến khi gà con được cho ăn lần đầu tiên.

Trong suốt quá trình ấp, đĩa mầm trong trứng thụ tinh sẽ phát triển thành phôi, dần dần hình thành các chức năng cần thiết và cuối cùng nở ra gà con khỏe mạnh. Để tiến trình này xảy ra thuận lợi, trứng cần được ấp dưới một nhiệt độ thích hợp. Nhiệt phải được cung cấp từ bên ngoài trong một nửa giai đoạn đầu của quá trình ấp. Nửa còn lại, phôi bắt đầu tự tạo nhiệt và ở ngày ấp thứ 15, sản xuất nhiệt trao đổi của phôi tăng lên đến một mức độ mà nhiệt thoát ra từ trứng trở thành nguồn cung cấp chính.

Mức độ này rất quan trọng để phân biệt giữa nhiệt độ không khí trong máy ấp và nhiệt độ bên trong trứng. Và từ sự phân biệt này mà các khuyến cáo về nhiệt độ thiết lập cho máy ấp khác nhau tùy thuộc vào loại máy và hãng sản xuất, trong khi kết quả cuối cùng là nhiệt độ sử dụng lại tương tự nhau. Nhiệt độ phôi nằm giữa 37 đến 38oC (98.6 – 100.4oF) là kết quả chấp nhận được.

Để có được nhiệt độ phôi không đổi trong 21 ngày khi ấp, nhiệt độ không khí xung quanh sẽ phải giảm dần trong suốt quá trình này. Trong máy ấp multi-stage machine*, trứng lạnh thường được để kế bên những trứng sản sinh nhiệt nhiều nhất để tận dụng nhiệt sản sinh từ phôi và bảo đảm phần nào sự đồng nhất nhiệt độ phôi giữa các trứng.

(*multi-stage incubation: trứng được để vào máy ấp liên tục với tần suất 1 đến 2 lần mỗi tuần.)

Một hệ thống khác là single-stage incubation: tất cả các trứng đưa vào máy có cùng giai đoạn phát triển, ấp cùng một thời gian và đưa các gà con mới nở ra khỏi máy cùng lúc. Hiểu đơn giản, đây là loại máy ấp “cùng vào - cùng ra” - all-in, all-out incubation.)

Biểu đồ 1 Sự thay đổi nhiệt độ ở từng loại máy ấp

Trong máy single-stage incubation, nhiệt độ thiết lập cho máy sẽ được nâng lên vào thời điểm khi bắt đầu ấp và giảm dần sau đó, như ở biểu đồ 1. Biểu đồ đang minh họa tiến trình thay đổi nhiệt độ được áp dụng cho trại ấp của đàn gà giống một lứa tuổi của công ty Aviagen - Hoa Kỳ; cho trứng gà thịt đồng đều hơn, tốt hơn và do đó tạo ra nhiều nhiệt hơn. Một thí nghiệm tương tự cần được theo dõi thêm để phát triển các kiến thức phù hợp cho vấn đề này.

Quan sát bề mặt vỏ ở phần đỉnh trứng hay nhiệt độ phôi vào cuối thời điểm ấp trứng đã được các nhân viên nghiên cứu ở cả châu Âu và Hoa Kỳ ghi nhận lại. Các dấu hiệu này thường được kiểm tra vì nhiệt lượng tỏa ra từ trứng cao hơn nhiệt lượng do máy ấp cung cấp. Ngoài ra, bên trong máy ấp có thể dự đoán được nơi xuất hiện nhiệt độ cao (chính là các điểm giao nhau giữa dòng không khí và sự làm mát) nên đây thường không phải là vấn đề lớn của máy ấp.

^ Đầu trang

.

NGUYÊN NHÂN MÁY ẤP BỊ NÓNG

Máy ấp thương mại cơ bản là một hộp cách nhiệt, với các bộ phận để làm ấm và làm lạnh không khí bên trong. Các quạt được gắn vào nhằm cung cấp không khí trong lành cho máy ấp đồng thời phân phối không khí đến khắp bề mặt trứng. Máy multi-stage incubation chứa các trứng ở nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, trong khi máy single-stage incubation, tất cả các trứng chỉ có một giai đoạn duy nhất, vì thế máy multi-stage incubation phải làm việc nhiều hơn để duy trì sự ổn định nhiệt độ bên trong máy, thậm chí duy trì trạng thái hoạt động trong suốt quá trình ấp trứng.

Máy ấp bị nóng sau khi sử dụng có thể do bất kì nhân tố nào sau đây:

  • Máy cũ hay duy trì yếu có thể gây khó khăn cho bộ phận chứa trứng.
  • Máy được sửa đổi để chứa thêm trứng nhưng không cải thiện độ mát và độ thông gió, vì vậy làm quá tải hệ thống làm mát và hệ thống thông gió.
  • Giá cố định của máy multi-stage incubation có bức màn ngăn bị tháo ra mà không nâng cấp hệ thống quạt để ứng phó với các dòng không khí thay đổi.
  • Không chú ý nhiều đến hoạt động của máy single-stage incubation (do dòng không khí trong máy thay đổi mà không biết).
  • Có ổ đĩa kiểm soát năng lượng hao phí nên máy ấp có thể bị giới hạn dung lượng và khả năng sử dụng quạt.
  • Các trứng được đưa vào máy multi-stage incubation giữa các đợt không đều nhau (đợt này đưa quá nhiều, đợt sau đưa quá ít).
  • Sự khác biệt lớn trong độ tuổi của đàn gà đẻ (ảnh hưởng đến khả năng nở và nhiệt lượng phôi sản xuất) trong máy single-stage incubation.

Nghiên cứu của Sander Lourens tại Spelderholt và Lelystadt đã chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa tỉ lệ nở và nhiệt độ bề mặt trứng vào giờ thứ 432 (18 ngày) của máy ấp trong trại ấp. Điều này được thể hiện ở biểu đồ 2.

 

Biểu đồ 2 Mối quan hệ giữa tỉ lệ nở và nhiệt độ bề mặt trứng

^ Đầu trang

.

TỈ LỆ NỞ VÀ NHIỆT ĐỘ

Tỉ lệ nở thấp hơn khi nhiệt độ bề mặt trứng vượt quá 39oC và giảm 15% khi nhiệt độ bề mặt chạm tới ngưỡng 40.5oC.

Các quan sát khác được lặp lại trong một lồng ấp thử nghiệm.

Nhiệt độ thiết lập cho máy linh hoạt thay đổi để nhiệt độ bề mặt vỏ trứng được duy trì ở 37.8oC, hay nói cách khác, nhiệt độ vỏ từ 37.5oC lúc mới đưa vào, và tăng lên 38.6oC vào ngày ấp trứng thứ mười hai trở đi. Mặc dù nhiệt độ trong máy ấp tăng trong phạm vi không gây thiệt hại gì, nhưng trong thí nghiệm, khi tăng nhiệt độ như vậy có khả năng làm giảm 4 - 5% số trứng thụ tinh đang được ấp và trọng lượng gà con giảm 2.9 g so với khi giữ nhiệt độ ổn định.

Khi gà con trong giai đoạn tăng trưởng, cũng cho thấy: đối với chương trình giữ ấm có nhiệt độ tăng cũng có thể dẫn đến sự kém phát triển và năng suất không cao.

Nhiều thí nghiệm ở Hoa Kỳ tập trung nghiên cứu tình trạng của ruột và tình hình đáp ứng miễn dịch trong đàn gà thịt có giai đoạn trứng được ấp với nhiệt độ cao hơn mức bình thường. Nhiệt độ giữa những quả trứng (không phải là nhiệt độ bề mặt trứng) trong máy ấp nằm ở khoảng 40oC.

Biểu đồ 3 cho thấy hình dạng đặc trưng của nhiệt độ khi nhiệt độ xung quanh trứng vượt quá 40oC ở hầu hết thời gian trứng nằm ở máy ấp. Để đánh giá ảnh hưởng xấu nào có thể xảy ra khi sử dụng nhiệt độ vượt mức bình thường trong khi ấp trứng, các nhà nghiên cứu đã lấy mẫu mô từ các gà bị stress với nhiệt (do được ấp với nhiệt độ cao) và gà đối chứng (được ấp với nhiệt độ bình thường) để đưa đi phân tích mô học. Các mô kiểm tra này được lấy từ ruột (tá tràng, không tràng, hồi tràng), túi bursa và gan.

Biểu đồ 3 Hình dạng đặc trưng của nhiệt độ khi nhiệt độ xung quanh trứng vượt quá 40oC

Không có sự khác biệt trong các mẫu gan. Các mẫu túi bursa cũng không có kết luận đặc biệt nào nhưng có một điều đáng lưu ý là hệ thống miễn dịch của phôi bị stress nhiệt dường như kém biệt hóa hơn. Tuy nhiên, ở mẫu ruột, các mẫu của các phôi đối chứng (không bị stress nhiệt) có khả năng sản sinh và phục hồi biểu mô nhanh hơn.

Các quan sát này cung cấp kiến thức cơ bản về bệnh tích ở các cơ quan của gà con bị stress nhiệt trong máy ấp. Các bệnh tích này tập trung hiện tượng suy giảm miễn dịch và viêm ruột.

Ngoài ra, còn thấy một điều là trứng gà Ross dường như chỉ cần khoảng thời gian trong máy ấp ngắn hơn để nở ra gà con, vì thế giống này đang dần dần trở nên phổ biến trên thế giới. Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng, sự thay đổi năng suất cho trại giống không chỉ nằm ở con giống mà còn phụ thuộc vào việc cung cấp môi trường thuận lợi cho từng giai đoạn phát triển trong quá trình chăn nuôi.

Một cách nhanh chóng và đơn giản để ước lượng thời gian ấp nào tối ưu nhất, chính là cân trứng nặng bao nhiêu trước khi đặt vào máy ấp và cân gà con ngay lập tức sau khi đưa ra khỏi máy ấp. Nếu trọng lượng trung bình của gà con nằm giữa khoảng 66 và 68% trọng lượng trứng bình quân, nghĩa là thời gian ấp đang sử dụng đạt yêu cầu. Tỉ lệ giữa trọng lượng gà con và trọng lượng trứng rất quan trọng vì nếu tỉ lệ này là 64% có nghĩa trứng đó đã nằm trong máy ấp lâu hơn 4 đến 6 giờ so với nhu cầu nó cần. Và trong khoảng thời gian này, gà con có thể bị mất nước và được cho ăn trễ hơn. Ngược lại, nếu tỉ lệ này là 69% thì sẽ cực kì khó trong việc xác định giới tính của gà con.

Thời gian ấp tối ưu sẽ phụ thuộc vào kích cỡ của trứng; trứng to mất nhiều thời gian để đạt tới nhiệt độ ấp cần thiết nên sẽ cần thời gian ấp dài hơn. Sự khác biệt về cỡ trứng là do dinh dưỡng và một vài nguyên nhân khác; do đó cần theo dõi tỉ lệ giữa trọng lượng gà con và trọng lượng trứng để có những quyết định xử lý kịp thời nếu có vấn đề xảy ra.

Yael Noy và cộng sự tại đại học Hebrew ở Israel tập trung nghiên cứu các thay đổi diễn ra ngay sau khi nở, vì con giống sẽ chuyển đổi tất cả các chất dinh dưỡng trực tiếp từ lòng đỏ trứng thành các chất dinh dưỡng dễ tiêu hóa. Sự chuyển đổi thông thường mất 2 đến 3 ngày, nhưng có thể đẩy nhanh tiến độ này nếu gà con được cho ăn ngay trong vòng sáu giờ tính từ khi gà con đập vở vỏ trứng chui ra.

^ Đầu trang

.

KÍCH THÍCH CHUYỂN HÓA LÒNG ĐỎ

Khi thức ăn có mặt trong ruột đúng lúc sẽ kích thích quá trình chuyển hóa lòng đỏ trứng bên trong ruột, tạo điều kiện phát triển tối ưu bề mặt hấp thu ở ruột, gia tăng số lượng tế bào tiền thân mô cơ và cuối cùng có thể cải thiện đồng thời cả trọng lượng thực và tỉ lệ thịt ngực sau khi giết mổ thêm 5 - 10%. Nếu phôi đang bị stress nhiệt trong suốt quá trình ấp hay gà con nở sớm hơn dự kiến, và không được cho ăn sớm thì sự phát triển của ruột và tăng trưởng của gà con có thể bị ảnh hưởng xấu.

Ở Israel tập trung nghiên cứu những ưu điểm khi gà con được cho ăn ở giai đoạn sớm. Tuy nhiên, các thí nghiệm lại được thực hiện tại trại ấp của Aviagen ở Anh và Hoa Kỳ, xem xét tác động khi cho gà vừa mới nở tiếp xúc sớm với thức ăn trước khi được chuyển đến trang trại nuôi. Nhiều thông số khác nhau được theo dõi nhưng một trong những kết quả đáng lưu tấm nhất chính là: tăng được 4 - 5% trọng lượng cơ thể ở ngày thứ bảy khi gà con được tiếp xúc sớm với thức ăn.

Quản lý tốt trang trại gà thịt sẽ có được năng suất gà thịt cao, khi trại ấp đáp ứng được tất cả các điểm vừa nêu ở trên thì năng suất tốt nhất có thể đạt được.

^ Đầu trang

 

<< Trở về trang C.H.I.C.K. Program Online

Đầu trang